Chiến tranh đã lùi xa, nhưng ký ức về những người lính Binh đoàn Than năm xưa nay vẫn còn in đậm trong tâm trí của nhiều thế hệ. Những người thợ khoác áo lính, sát cánh trên trận mạc, khi trở về lại khoác lên mình màu áo công nhân, tiếp tục cống hiến trong những nhà máy, phân xưởng. Vượt qua mưa bom, bão đạn, những người lính Binh đoàn Than năm xưa trở thành biểu tượng của lòng quả cảm, tinh thần trách nhiệm và tình yêu quê hương đất nước, góp phần thắp sáng ngọn lửa truyền thống hào hùng của một thế hệ “vừa chiến đấu, vừa sản xuất” kiên trung.

Năm 1967, trước sự leo thang bắn phá ác liệt miền Bắc nước ta của đế quốc Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi: “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, chúng ta cũng quyết giành cho được tự do và độc lập”. Thực hiện lời kêu gọi của Người, lớp lớp thanh niên, công nhân ngành Than đã hăng hái làm đơn tình nguyện lên đường nhập ngũ. Nhiều người trong số họ còn viết đơn bằng máu để tỏ rõ khí phách của thợ mỏ. Sau thời gian ngắn huy động và tuyển chọn, gần 2.000 thợ mỏ cùng một số đơn vị khác được tập hợp thành 3 tiểu đoàn: Tiểu đoàn 385, Tiểu đoàn 386, Tiểu đoàn 9. Tên gọi Binh đoàn Than tuy không phải phiên hiệu chính thức trong quân đội, nhưng được đặt chung cho lực lượng này.

Ông Lưu Văn Quý ôn lại kỷ niệm thời kỳ chống Mỹ cứu nước.

Ông Lưu Văn Quý ôn lại kỷ niệm thời kỳ chống Mỹ cứu nước.

Ngày 30/7/1967, Binh đoàn Than làm lễ xuất quân, lên đường chi viện cho chiến trường miền Nam. Đây là đợt xung phong tòng quân lớn nhất của tỉnh Quảng Ninh lúc bấy giờ. Từ 3 tiểu đoàn ban đầu, những người lính Binh đoàn Than được phân về các đơn vị mới, tiếp tục chiến đấu trên khắp các chiến trường. Dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào, họ vẫn giữ vững khí phách kiên trung, tinh thần "Kỷ luật và Đồng tâm" của người thợ mỏ, kiên cường, bất khuất, sẵn sàng lao vào nơi gian khổ, ác liệt nhất để giành chiến thắng. Vượt qua mưa bom, bão đạn, những người lính trở về, họ không ngơi nghỉ mà tiếp tục bắt tay vào công việc tại các nhà máy, phân xưởng.

Ở tuổi đôi mươi, khi bao chàng trai mang trong mình khát vọng tuổi trẻ, Lưu Văn Quý đã lựa chọn một con đường đầy gian lao nhưng cũng rất đỗi tự hào khi viết đơn tình nguyện tham gia Binh đoàn Than, xung phong lên đường vào Nam chiến đấu. Nhớ lại những ngày đầu tiên, ông Quý không khỏi bồi hồi: "Ngày đó công nhân chúng tôi háo hức khi được gọi vào Binh đoàn Than. Khi ấy chúng tôi suy nghĩ đơn giản chỉ mong được cầm súng ra trận, góp một phần sức mình cho Tổ quốc thân yêu”.

Sau khi tập kết tại Đông Triều và hành quân bộ vào Ninh Bình để huấn luyện, tháng 12/1967 đơn vị của ông được lệnh hành quân thần tốc vào chiến trường miền Nam. Khi ấy Chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 đã cận kề, ông và đồng đội như những mũi lao xung kích, bổ sung lực lượng cho chiến trường Tây Ninh.

Hành quân suốt nhiều tháng trời, đến tháng 6/1968, đơn vị ông đặt chân đến Tây Ninh và ngay lập tức tham gia trận chiến tại Long An. Đối mặt với các sư đoàn Mỹ - Ngụy, ông cùng đồng đội kiên cường chống trả, tập trung lực lượng đánh bại nhiều đợt càn quét của địch. Chiến trường khốc liệt đã khiến lực lượng hao hụt dần, buộc các chiến sĩ phải phân tán, bổ sung vào các đơn vị địa phương. Ngày 26/6/1968 trong trận chống càn tại ấp Bình Chánh, Long An, ông Quý bị thương nặng. "Lúc đó quân địch dội pháo dồn dập, phản lực quần xé trên đầu. Khi bị trúng pháo, hai mảnh đạn găm vào đầu, chân tay bắt đầu tê liệt, tôi cố gắng bắn hết 2 quả đạn cuối cùng rồi giao súng cho đồng đội, bò vào gốc cây dừa nằm. Sau đó tôi rơi vào trạng thái mê man và may mắn được đồng đội cứu thoát, đưa về điều trị tại bệnh viện địa phương. Khi hồi phục, tôi xin ra Bắc điều dưỡng; cuối năm 1970 được đưa về an dưỡng tại Hải Phòng”, ông Quý nhớ lại.

Huân chương chiến sĩ giải phóng của ông Lưu Văn Quý.

Huân chương chiến sĩ giải phóng của ông Lưu Văn Quý.

Dẫu sức khỏe bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh, nhưng với tinh thần người lính Cụ Hồ, cuối năm 1971 ông Quý xin trở lại làm việc tại Mỏ than Hà Tu. Từ chiến trường rực lửa đến những mỏ than âm ỉ khói bụi, ông luôn mang trong mình ngọn lửa nhiệt huyết, tinh thần chiến đấu và cống hiến không ngừng nghỉ. Ông đảm nhận công việc thợ sửa chữa ô tô kỹ thuật phục vụ khai thác than. Không chỉ cần mẫn lao động, ông còn không ngừng sáng tạo, đóng góp nhiều sáng kiến, cải tiến kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất. Lúc này miền Bắc đang chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, vừa sản xuất, vừa chiến đấu bảo vệ mỏ. Ông cùng đồng đội tham gia lực lượng tự vệ mỏ, sơ tán phân xưởng lên rừng, núi để tiếp tục duy trì sản xuất và bảo vệ cơ sở vật chất. Các lực lượng vũ trang và dân quân tự vệ mỏ luôn có mặt trực chiến đấu trận địa, tham gia đánh trả địch quyết liệt. Với tinh thần trách nhiệm và năng lực của mình, từ năm 1978-1982 ông được bầu làm Bí thư Đoàn Mỏ than Hà Tu, dẫn dắt thế hệ trẻ phát huy tinh thần cống hiến. Sau đó ông tiếp tục đảm nhận vai trò Quản đốc Phân xưởng Đội xe 2 cho đến khi nghỉ hưu tháng 6/2004.

Ông Chu Văn Đích thăm lại Nhà máy Cơ khí Hòn Gai.

Ông Chu Văn Đích thăm lại Nhà máy Cơ khí Hòn Gai.

Hơn nửa thế kỷ đã qua, nhưng ký ức về chiến tranh và những năm tháng gắn bó với nghề mỏ vẫn in đậm trong tâm trí CCB Chu Văn Đích. Từ một thợ cơ khí xung phong nhập ngũ, rồi lại trở về gắn bó với nhà máy, xí nghiệp, ông là minh chứng sống cho tinh thần kiên cường và bất khuất của người thợ mỏ Việt Nam. Khi còn là một người thợ làm việc tại Nhà máy Cơ khí Hòn Gai, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, tháng 7/1967 ông Đích chính thức trở thành chiến sĩ Trung đội 4, Đại đội 3, Tiểu đoàn 385, Binh đoàn Than. Sau những tháng ngày huấn luyện gian khổ, ông nhanh chóng có mặt trong trận đánh mở màn Chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 tại Làng Vây, sân bay Tà Cơn (Quảng Trị). Từ đó ông thẳng tiến đến các mặt trận Kon Tum, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ và Campuchia, đối mặt với biết bao trận đánh ác liệt.

Trong một trận chiến, ông bị thương hỏng bên mắt phải, được đại đội đề nghị phục viên trở về miền Bắc năm 1974. Dù mang trong mình vết thương chiến tranh, ông Đích vẫn khát khao được cống hiến. Với ông, người lính ra đi từ công nhân mỏ thì trở về vẫn muốn gắn bó với nhà máy, xí nghiệp mỏ.

Ông Đích chia sẻ: “Khi trở về, Nhà máy Cơ khí Hòn Gai chỉ còn là đống đổ nát do chiến tranh. Tuy nhiên, với tinh thần "Sản xuất là trên hết", tôi cùng đồng đội lao vào khôi phục Nhà máy. Từ sửa chữa máy móc, cải tạo hạ tầng đến khôi phục các dây chuyền sản xuất, mỗi công trình đều hoàn thành vượt tiến độ. Nhờ vào sự đoàn kết và quyết tâm, Nhà máy dần dần hồi sinh. Những công trình quan trọng như cầu Poóc-tích bến Cửa Ông, đầu máy xe hỏa, xe ô tô đều hoàn thành vượt tiến độ. Sự đoàn kết, đồng lòng của thợ mỏ đã trở thành nguồn sức mạnh để Nhà máy hồi sinh”.

Từng là một người lính trở về, ông Đích trở thành một người thợ giàu kinh nghiệm, người lãnh đạo tinh thần trong lực lượng công nhân. Nhờ những đóng góp không mệt mỏi, ông được bổ nhiệm làm Chủ tịch Công đoàn Nhà máy, trở thành người thắp lửa tinh thần, khích lệ lao động và giữ gìn truyền thống bất khuất của người thợ mỏ Việt Nam. Đến nay đã nghỉ hưu, nhưng trong trái tim ông vẫn vẹn nguyên những ký ức hào hùng một thời chiến đấu trong Binh đoàn Than và những tháng ngày gắn bó đầy tự hào với Nhà máy Cơ khí Hòn Gai.

Chiến tranh đã lùi xa, nhưng dấu ấn của những năm tháng hào hùng ấy vẫn còn đọng lại trong những người lính năm xưa. Họ đã cầm súng bảo vệ Tổ quốc, trở lại gắn bó với những công việc quen thuộc. CCB Đỗ Xuân Nghiêm đã có những năm tháng tham gia vào Binh đoàn Than tại chiến trường Bình Trị Thiên từ năm 1967-1974. Đầu năm 1975 ông quay trở lại Mỏ than Hà Lầm tiếp tục công việc mà ông từng cống hiến trong những năm tháng gian khó. Ông làm việc tại Phòng Vật tư và Kho vũ khí, tham gia vào Tiểu đoàn tự vệ mỏ, bảo vệ thành quả lao động và giữ gìn bình yên cho Vùng mỏ.

Nhìn lại từng trang tư liệu lịch sử, ông không khỏi bồi hồi và tự hào. Chính những năm tháng tham gia chiến trường đã rèn giũa sự kiên trì, tinh thần đoàn kết, quan trọng nhất là tình yêu quê hương tha thiết. Trở về sau chiến tranh, cũng như bao người lính Binh đoàn Than, ông Nghiêm không mong cầu vinh quang, chỉ mong được trở lại nhà máy, xí nghiệp, được tiếp tục cống hiến như những người công nhân bình thường, góp sức vào công cuộc xây dựng đất nước.

Ông Nghiêm tâm sự: “Tôi được phân công về tổ sửa chữa, bảo trì thiết bị mỏ và vũ khí quân sự phục vụ sản xuất tự vệ. Khi đó Mỏ than Hà Lầm gặp muôn vàn khó khăn, điều kiện làm việc còn thiếu thốn, sản xuất chủ yếu dựa vào sức người. Nhưng chính tinh thần kỷ luật, đoàn kết và lòng quyết tâm đã giúp chúng tôi vượt qua thử thách, đồng cam cộng khổ, cùng nhau gắn bó với mỏ. Hôm nay đứng giữa mỏ Hà Lầm hiện đại, tôi không khỏi xúc động khi thấy Công ty có bước chuyển mình mạnh mẽ. Công nghệ tiên tiến được ứng dụng, máy móc dần thay thế lao động thủ công, giúp công nhân làm việc an toàn, hiệu quả hơn, thu nhập được nâng cao, đời sống ngày càng tốt hơn. Chứng kiến những đổi thay ấy, chúng tôi - những người từng đi qua những năm tháng gian khó, cảm thấy thật tự hào. Mỏ không chỉ là nơi làm việc, mà còn là cả một phần tuổi trẻ, là mồ hôi, công sức, là chứng tích cho sự đổi thay và phát triển của tỉnh”.

Ngày đất nước sạch bóng quân thù, những người lính năm xưa như ông Lưu Văn Quý, Chu Văn Đích, Đỗ Xuân Nghiêm cùng nhiều đồng đội trong Binh đoàn Than trở về mang theo trong tim niềm tự hào và cả những ký ức chiến tranh không thể phai mờ. Những ai còn đủ sức khỏe lại khoác lên mình bộ đồ thợ mỏ, tiếp tục gắn bó với hầm lò sâu hun hút, cần mẫn lao động như những người lính trên mặt trận mới. Dù không còn tiếng bom rơi đạn nổ, họ vẫn giữ vững tinh thần thép, sẵn sàng đối mặt với gian khó, tiếp tục kiên cường như những ngày xông pha trận mạc. Nhiều người trong số họ được đào tạo bài bản, trở thành cán bộ chủ chốt, tận tụy chèo lái các đơn vị, xí nghiệp, đóng góp trọn đời cho sự phát triển của ngành Than, của tỉnh.

Huân chương chiến sĩ giải phóng hạng Ba của ông Đỗ Xuân Nghiêm.

Mỏ Hà Tu hôm nay.

Tinh thần cách mạng, ý chí kiên cường của những CCB Binh đoàn Than vẫn cháy sáng, như ngọn lửa bất diệt không bao giờ tắt. Họ chính là biểu tượng của một thế hệ “vừa chiến đấu, vừa sản xuất”,  viết tiếp trang sử hào hùng của dân tộc bằng xương máu, mồ hôi, lòng yêu nước, thắp sáng niềm tự hào cho thế hệ thợ mỏ sau này.

Mỏ Hà Tu hôm nay.

Mỏ Hà Tu hôm nay.

Ngày xuất bản: 1/5/2025
Thực hiện: Phạm Tăng
Trình bày: Vũ Đức